Chiều ngày 14/7, TAND quận Phú Nhuận sẽ tuyên án sơ thẩm lần 2 vụ án "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" đối với bị cáo Nguyễn Trần Hoàng Phong (SN 1988, ngụ quận Gò Vấp, TP.HCM).
Phong là tài xế lái ô tô Mercedes tông nữ tiếp viên hàng không Nguyễn Thị Bích Hường (SN 1990, quận Phú Nhuận) thương tật vĩnh viễn 79%, ông Lê Mạnh Thường (SN 1956, quận 12, người chạy GrabBike) tử vong.
Trước khi HĐXX tuyên án, VKSND đã có đề nghị mức án đối với bị cáo Phong từ 6-7 năm tù, và bồi thường dân sự cho gia đình bị hại Thường là hơn 417 triệu đồng, bị hại Bích Hường là 1,5 tỉ đồng. Ngoài ra, VKS cũng đề nghị HĐXX hủy hợp đồng mua bán căn hộ giữa bị cáo và mẹ bị cáo (bà M.) để đảm bảo kê biên tài sản.
Chiều ngày 14/7 Tòa án quận Phú Nhuận sẽ tuyên án sơ thẩm lần 2 đối với bị cáo Phong
Trong diễn biến phiên tòa vào ngày 12/7, luật sư của bị hại Bích Hường đã nêu quan điểm cho rằng ngay từ giai đoạn điều tra (lần 2) thì cơ quan điều tra Công an quận Phú Nhuận có quyền ra lệnh kê biên tài sản là căn hộ chung cư Dream Home (quận Tân Bình, TP.HCM) của bị cáo Phong để bảo đảm cho bị cáo có thể bồi thường thiệt hại cho các bị hại sau này.
Thế nhưng hiện bị cáo Phong đã ký hợp đồng mua bán căn hộ giữa bị cáo và bà Mi và tất cả đã hoàn tất thủ tục pháp lý, tức là căn hộ này không còn thuộc quyền sở hữu của bị cáo Phong nữa. Từ đó bị cáo không còn bất kỳ tài sản nào có thể thực hiện việc bồi thường cho các bị hại.
VKS đề nghị HĐXX tuyên hủy hợp đồng mua bán nhà giữa bị cáo và mẹ
Để bảo vệ quyền lợi cho bị hại Hường và có thể nhận được tiền bồi thường từ bị cáo, luật sư của bị hại đã đề nghị hủy Văn bản chuyển nhượng hợp đồng mua bán căn hộ trên giữa hai mẹ con.
Lý do đưa ra, luật sư bị hại cho hay: "Hợp đồng này vô hiệu theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ Luật dân sự là mục đích và nội dung của việc mua bán nhà này là trái pháp luật và trái đạo đức xã hội, bị cáo bán nhà là để tẩu tán tài sản, không thực hiện bồi thường cho bị hại".
Luật sư của bị hại nêu quan điểm tại phiên toà
Theo luật sư, việc bị cáo Phong bán căn hộ này cho bà Mi là hợp đồng có điều kiện. Cụ thể điều kiện nêu trong đơn xin gặp gặp mặt công chứng ngày 22/6/2020 mà bị cáo Phong gửi Công an quận Phú Nhuận là "để mẹ tôi có khả năng khắc phục hậu quả tại nạn do tôi gây ra".
"Thực chất bị cáo cũng không nhận số tiền bán căn nhà là hơn 1 tỉ đồng từ bà Mi. Bà Mi cho tới nay cũng chưa thực hiện điều kiện của bị cáo Phong yêu cầu là sử dụng tài sản giá trị căn nhà để bồi thường thiệt hại cho bị hại. Cho nên nếu căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng mua bán căn hộ thì bà Mi không đủ điều kiện để có quyền sở hữu hợp pháp đối với căn hộ này", luật sư nêu rõ quan điểm.
Ngoài ra cũng có cơ sở khác chứng minh "Văn bản chuyển nhượng hợp đồng mua bán căn hộ ký ngày 22/6/2020 giữa bị cáo và mẹ bị cáo là vô hiệu" là hoàn toàn đúng pháp luật. Theo luật sư đó là dựa trên "Án Lệ 14/2017/AL Về Vụ án YÊU CẦU HỦY HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT". Vụ án diễn ra tại tỉnh Điện Biên.
Bị cáo Phong và các bị hại
Cụ thể tình huống án lệ: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không ghi điều kiện tặng cho nhưng tại các văn bản, tài liệu khác có liên quan thể hiện các bên đã có thỏa thuận, thống nhất về điều kiện tặng cho và điều kiện tặng cho là hợp pháp.
Trong trường hợp này, Tòa án phải công nhận điều kiện của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đó là hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện.
Vụ án thu hút dư luận, truyền thông vì các tình huống pháp lý
Luật sư của bị hại cho rằng, đối chiếu với án lệ số 14 này thì Văn bản chuyển nhượng hợp đồng mua bán căn hộ giữa bị cáo Phong và mẹ là hợp đồng mua bán có điều kiện. Thế nhưng mẹ bị cáo không đồng ý thực hiện dùng căn hộ này để đảm bảo nghĩa vụ bồi thường cho bị cáo nên mẹ bị cáo đã vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Do đó hợp đồng mua bán căn hộ này giữa hai mẹ con là vô hiệu.
"Tôi cho rằng Tòa án có thẩm quyền và căn cứ tuyên bố hợp đồng này là vô hiệu là hoàn toàn đúng quy định", luật sư Nguyễn Sơn Lâm (một trong hai luật sư của bị hại) nói.
Theo Án lệ số 14, ông Quàng Văn P1 (ngụ tỉnh Điện Biên) khởi kiện vợ chồng con trai là anh Quàng Văn P2 để “yêu cầu hủy HĐ chuyển nhượng QSDĐ”. Lý do ông P1 khởi kiện là bởi ông cho rằng anh P2 đã không thực hiện điều kiện đã cam kết khi ông tặng cho đất.
Nếu có căn cứ xác định cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại địa phương cấp đất cho ông Quàng Văn P1 từ năm 2003 (vì Tòa án các cấp chưa thu thập quyết định cấp đất năm 2003), thì ông P1 có quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất nêu trên từ năm 2003 nên ông Quàng Văn P1 có quyền định đoạt tài sản của mình.
Tuy nhiên, ông Quàng Văn P1 cho rằng việc ông tặng cho vợ chồng anh Quàng Văn P2 là có điều kiện, đó là vợ chồng anh Quàng Văn P2 phải làm nhà cho ông ở, chăm sóc ông và bố, mẹ của ông, nhưng vợ chồng anh Quàng Văn P2 không thực hiện cam kết.
Tuy anh Quàng Văn P2 không thừa nhận việc ông Quàng Văn P1 tặng cho có điều kiện, nhưng tại giấy ủy quyền ngày 25/3/2006, thể hiện ông Quàng Văn P1 ủy quyền cho anh Quàng Văn P2 xin giấy phép xây dựng... có trách nhiệm xây nhà trên lô đất 379B để ông Quàng Văn P1 ở, có trách nhiệm chăm sóc vợ chồng cụ K (là bố, mẹ của ông Quàng Văn P1).
Tại bản Cam kết ngày 12/10/2006, anh Quàng Văn P2 có ghi "... Tôi được bố cho mảnh đất...tôi làm cam kết này với chính quyền địa phương sẽ tiến hành xây dựng nhà ở cho bố tôi và không được chuyển nhượng cho ai.”
Mặc dù hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không ghi điều kiện nhưng tại các văn bản nêu trên có thể hiện anh Quàng Văn P2 phải làm nhà cho ông Quàng Văn P1 ở, chăm sóc ông Quàng Văn P1 và bố mẹ của ông Quàng Văn P1.