Jagdterrier theo tiếng Đức có nghĩa là "chó săn", và đứng như cái tên của mình chúng là một giống chó săn được phát triển ở Đức giữa hai cuộc Thế chiến, trong thời điểm mà chủ nghĩa dân tộc của người Đức được đẩy lên cao nhất. Các nhà nghiên cứu tế bào học về săn bắn Walter Zangenberg, Carl Erick Grunewald và Rudolph Friess đã cho rằng giống chó Fox Terrier đang được nuôi ngày càng nhiều với mục đích làm bạn, chó biểu diễn chứ không còn là một loài chó săn mồi tốt. Vì vậy họ đã quyết định nghiên cứu và lai tạo ra một giống chó mới, giống chó này sẽ phải là một "cỗ máy săn mồi" vượt trội hơn so với các giống chó của Anh và Mỹ.
Jagdterrier là giống chó được dựa trên nền tảng là giống Fox Terrier, chúng được lai tạo với rất nhiều giống chó khác nhau, nhưng cho tới nay công thức lai tạo của giống chó này vẫn còn là một bí mật chưa được công bố. Một số sử gia về giống chó tin rằng giống chó Welsh Terrier và Old English terrier cũng được sử dụng trong quá trình lai tạo, trong khi những người khác tin rằng trong cơ thể của Jagdterrier còn mang trong mình dòng máu của hai giống chó Teckels và Pinchers.
Dù công thức di truyền chính xác của giống chó này vẫn còn là một bí ẩn, nhưng chúng ta biết rằng các tiêu chí lựa chọn trong quá trình phát triển của giống chó này rất nghiêm ngặt, với hàng nghìn con giống không phù hợp với tiêu chí của nhà lai tạo đã bị loại bỏ.
Điều khiến cho giống chó này trở thành một "cỗ mày săn mồi" là thể chất đặc biệt, bản năng săn mồi vượt trội, sự tàn nhẫn, kiên trì theo đuổi con mồi, không sợ hãi và khả năng săn con mồi lớn hơn nhiều so với kích thước của chúng.
Tổ tiên của giống chó này là chó sục cáo lông xoăn, chúng có khả năng rượt đuổi mạnh mẽ và hiếu chiến hơn chó sục cáo lông mượt. Chúng có xu hướng thích so tài và chế ngự các loài chó khác, kể cả các “đàn anh”. Chỉ cần có cơ hội, chúng này sẽ thể hiện tài năng săn mồi bất cứ lúc nào. Giống chó này có nguồn gốc từ nước Anh vào khoảng thế kỷ 18. Ban đầu, người ta dùng loại chó này để dụ cáo ra khỏi nơi ẩn nấp, sau đó dồn con mồi chui vào lưới. Ngày nay, chó sục cáo lông mượt thường sử dụng trong việc săn chuột và săn côn trùng.
Nhưng thật không may, Thế chiến 2 đã gây ra một thiệt hại nặng nề cho số lượng của giống chó Jagdterrier, và chỉ vài thập kỷ sau khi phát triển, chúng chỉ còn lại 32 cá thể từ 9 đàn trên toàn nước Đức. Nhưng giống chó này đã phục hồi lại số lượng sau chiến tranh, và tại Triển lãm chó thế giới năm 1965 ở Brno, đã có 29 chú chó Jagdterrier đã vượt qua tất cả các giống chó khác trong các cuộc thi.
Jagdterrier là giống chó có thể hình tương đối nhỏ và gọn (nặng 7. 5 đến 10 kg), thực sự có thể thấy chúng là một giống chó săn đặc biệt, rất thích hợp để săn mồi dưới mặt đất, chúng có thể săn mồi lớn hơn nhiều so với cơ thể chúng, đặc biệt là khi đi săn theo bầy có từ 3-4 con chó. Jagdterrier là một giống chó nhỏ, nhưng chúng luôn tin rằng mình là một con chó lớn. Bởi vậy nó sẽ không cảm thấy sợ hãi và sẽ đối đầu với lợn rừng đực và thậm chí cả gấu mà không quan tâm đến sự an toàn của chính mình.
Lịch sử của giống chó này bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ 20, khi một công ty nhỏ của những người đam mê đã phục hồi các phẩm chất làm việc của những con chó terrier nổi tiếng một thời. Mục tiêu chính của công việc là tạo ra những thợ săn lý tưởng. Một năm sau khi xuất hiện, trên khắp nước Đức bắt đầu hình thành rất nhiều các câu lạc bộ nuôi giống chó này. Vào đầu những năm 80, Jagdterrier đã được chính thức công nhận là một giống chó mới, đồng thời tiêu chuẩn riêng của giống chó này xuất hiện.
Một bầy từ 3 đến 5 chú chó có thể hạ gục được cả một con lợn rừng lớn, nhưng sau những trận chiến như vậy thường sẽ có một vài chú chó phải hy sinh. Tuy nhiên, nếu chúng có thể sống sót được sau những thương tích như vậy, chúng vẫn sẽ tiếp tục đi săn mà không hề cảm thấy sợ hãi.
Khả năng chịu đau của giống chó này cũng là vượt trội hơn nhiều khi so với các giống chó săn khác, theo các bác sĩ thú y, có rất nhiều thợ săn kể lại rằng chú chó của họ đã từng bị thương và được cáp cứu, khâu lại vết thương ngay trong rừng mà không có chút thuốc giảm đau nào.
Trên thực tế, vì là một "cỗ máy săn mồi" nên giống chó này không quá thân thiện với con người. Bởi vậy để có thể nuôi chúng trở thành thú cưng cũng khá khó khăn và đòi hỏi phải xã hội hóa từ rất sớm. Cũng chính vì lý do này mà giống chó này không nên được nuôi dưỡng bởi những người thiếu kinh nghiệm. Nếu không có các biện pháp giáo dục và đào tạo bài bản, giống chó này sẽ trở nên mất kiểm soát và có thể gây nguy hiểm khi được nuôi làm thú cưng.